Phê bình Chủ_nghĩa_vị_lợi

Vì Chủ nghĩa thực tế không phải là một học thuyết đơn lẻ mà có một loạt những học thuyết lien quan đã phát triển trên 200 năm, nên những lời chỉ trích có thể được thực hiện từ nhiều lý do và mục đích khác nhau.

Loại bỏ công lý

Như Rosen đã chỉ ra, tuyên bố rằng những người theo Chủ nghĩa thực tế hành động mà không quan tâm đến việc có những luật là để tạo ra một “kẻ bù nhìn”. Tương tự, Hare đề cập rằng “Các bức tranh biếm họa của Chủ nghĩa thực tế hành động là những mô tả duy nhất mà nhiều nhà triết học dường như hiểu rõ."[58] Theo những gì Bentham nói về những điều xấu xa thứ 2(second order evils)[59] thì thật là sai lầm nghiêm trọng khi nói rằng Bentham và những nhà tư tưởng theo Chủ nghĩa thực tế hành động sẵn sàng trừng phạt một người vô tội cho những điều tốt đẹp hơn. Tuy nhiên, dù cho họ có đồng ý hay không, đây là những điều mà các nhà phê bình Chủ nghĩa thực tế nêu lên gắn liền với học thuyết. Một bài phê bình theo phong cách cổ được viết bởi H. J. McCloskey:

Giả định rằng một viên cảnh sát đối diện với lựa chọn phải ngụy tạo bằng chứng cho người da đen tội cưỡng bức, điều mà có thể dấy lên lòng căm hận đối với người da đen(một người da đen luôn bị thành kiến rằng có tội mặc dù người cảnh sát biết rằng người này là vô tội) và vì vậy ngăn chặn những cuộc bạo loạn nghiêm trọng chống lại người da đen, những cuộc bạo loạn này sẽ dẫn đến chết người và gia tăng lòng hận thù giữa người da trắng và người da đen – hay nói đúng hơn là những cuộc thanh trừng đẫm máu nhằm vào những kẻ có tội và vì vậy dấy lên các phong trào chống đối người da đen, trong khi làm điều tốt nhất người cảnh sát có thể để ngăn chặn những thảm kịch này. Trong trường hợp này, viên cảnh sát, nếu là một người theo chủ nghĩa thực tế “vượt mức”(“hành động”), sẽ ngụy tạo bằng chứng phạm tội cho người da đen đó.

Theo những người thuộc Chủ nghĩa thực tế “vượt mức”, McCloskey đề cập đến việc phát triển học thuyết này trở thành Chủ nghĩa thực tế “hành động”. Trong khi câu chuyện này có thể được dẫn như một phần của việc chứng minh cho việc chuyển đổi từ Chủ nghĩa thực tế hành động sang Chủ nghĩa thực tế nguyên tắc, McCloskey dự đoán điều này và chỉ ra rằng mỗi nguyên tắc đã được chứng minh tính hữu ích của nó. Thật không chính xác khi nói một nguyên tắc với những ngoại lệ không có nhiều tính hữu ích. Câu chuyện trên đây có thể trả lời rằng viên cảnh sát sẽ không ngụy tạo bằng chứng chống lại người vô tội vì nguyên tắc “không được làm hại người vô tội”; nó cũng có thể trả lời rằng những vấn đề này cần phải được giải quyết, và những cuộc chống đối có thể có những lợi ích về mặt lâu dài bằng cách thu hút sự chú ý và vì vậy giải quyết tình trạnh phân biệt chủng tộc. Tuy nhiên, McCloskey hỏi, thế còn Luật “làm hại một người vô tội khi và chỉ khi làm như vậy là không làm suy yếu bộ máy luật pháp và khi kết quả của việc làm này là có giá trị"?

Trong một bài báo sau đó, McCloskey nói:[60]

Chắc chắn những người theo Chủ nghĩa thực tế buộc phải thừa nhận rằng dù cho thực tế của vấn đề có thể là gì, nó là hoàn toàn hợp lý để có một hệ thống luật pháp “không công bằng” – ví dụ, một hệ thống bao gồm những hình phạt cho tập thể, những luật và hình phạt mang tính chất cổ xưa, hay bao gồm những hình phạt cho cha mẹ và những người liên quan đến kẻ phạm tội - có thể hữu dụng hơn một hệ thống luật pháp “công bằng”?

Hệ quả được dự đoán trước

Một vài người tranh luận rằng không thể thực hiện những sự tính toán mà Chủ nghĩa thực tế đưa ra vì kết quả vốn không thể biết trước được. Daniel Dennett mô tả điều này như là hiệu ứng “hòn đảo 3 dặm”(“Three Mile Island”)..[61] Dennett chỉ ra rằng không chỉ không thể nói rằng một giá trị rõ ràng là ngẫu nhiên, mà còn không thể biết được liệu, cuối cùng, sự sắp sụp đổ diễn ra là điều tốt hay xấu. Ông cho rằng nó sẽ là một điều tốt nếu những người điều hành nhà máy được học những bài học về cách ngăn chặn những sự cố nghiêm trọng trong tương lai.

Russell Hardin không đồng tình với quan điểm này. Ông tranh luận rằng có thể phân biệt được những động cơ đạo đức của Chủ nghĩa thực tế(định nghĩa điều đúng đắn là điều tạo ra một kết quả tốt và khuyến khích mọi người thực hiện điều này) với khả năng của chúng ta để ứng dụng một cách hợp lý những nguyên tắc mang tính lý trí trong những điều khác “phụ thuộc vào điều kiện thực tế của các trường hợp và tình trạng tâm lý của những con người đạo đức cụ thể."[62] Dù cho tình trạng tâm lý có những giới hạn nhất định và có thể thay đổi không có nghĩa là điều kiện thực tế có thể bị loại bỏ. “Nếu chúng ta phát triển một hệ thống tốt hơn dành cho việc xác định các mối quan hệ nhân quả liên quan đến nhau để mà chúng ta có thể lựa chọn những hành động tạo ra một cách tốt hơn những mục đích mà chúng ta đã dự định, thì tình trạng tâm lý không thay đổi theo vì vậy chúng ta buộc phải thay đổi những nguyên tắc đạo đức của mình. Động cơ của Chủ nghĩa thực tế là không thay đổi, nhưng quyết định của chúng ta lệ thuộc vào nó là một bí ẩn đối với kiến thức của chúng ta và sự lý giải của khoa học."

Từ lúc bắt đầu, Chủ nghĩa thực tế đã nhận ra rằng sự chắc chắn trong vấn đề này là không thể đạt được và cả Bentham và Mill đều cho rằng cần phải dựa vào khuynh hướng của hành động để tìm ra các kết quả. G. E. Moore viết trong năm 1903 rằng:[62]

Chúng ta chắc chắn không thể hy vọng hoàn toàn vào việc so sánh kết quả của họ nhưng có thể so sánh trong một khoảng thời gian nhất định; và tất cả các cuộc tranh luận, về vấn đề Đạo đức, và về những hành động của chúng ta trong cuộc sống hằng ngày, hướng đến việc chứng minh một hành động là tối ưu hơn những hành động khác, bị(ngoại trừ những giáo điều Thần học) hạn chế để chỉ ra những ưu điểm khả thi ngay lập tức… Một quy luật Đạo đức, về mặt bản chất, không phải là những định luật khoa học, mà là những dự đoán khoa học: và những dự đoán khoa học luôn luôn chỉ mang tính “có thể”, dù cho sự “có thể” đó là rất lớn.

Những mục tiêu khó khăn

Chủ nghĩa thực tế hành động không chỉ yêu cầu làm những điều để tối đa hóa lợi ích, mà còn thực hiện một cách vô tư không thiên vị. Mill nói, “Khi giữa hạnh phúc của bản thân một người và những người khác, Chủ nghĩa thực tế yêu cầu người đó công bằng tuyệt đối như một người ngoài cuộc vô tư và nhân từ." Các nhà phê bình nói rằng những yêu cầu phối hợp này tạo ra một Chủ nghĩa thực tế vô lý. Hạnh phúc của một người xa lạ được cho là quan trọng cũng như hạnh phúc của những người bạn, gia đình và bản thân của một người. “Điều làm cho những yêu cầu này trở nên không thể chấp nhận được là số lượng khổng lồ những người xa lạ trong nhu cầu giúp đỡ to lớn và sự hy sinh mãi mãi cho những người xa lạ này."[62] Như Shelly Kagan từng nói, “Gửi những thông số của thế giới thực tế, không có những câu hỏi tối đa hóa những điều tốt sẽ yêu cầu một cuộc sống khó khăn, tự phủ nhận bản thân, và nghiêm khắc… nói rõ hơn là, một cuộc sống dành cho những điều tốt đẹp là một cuộc sống khắc khổ."[62]

Hooker mô tả hai khía cạnh của vấn đề: Chủ nghĩa thực tế hành động yêu cầu một sự hy sinh lớn lao từ những người tốt hơn và cũng yêu cầu sự hy sinh lòng tốt của một người thậm chí khi tổng hợp của tất cả những điều tốt sẽ chỉ tăng một chút.[62] Một cách khác của việc nhấn mạnh những lời chỉ trích là nói rằng trong Chủ nghĩa thực tế, “sẽ không có việc được hy sinh bản thân một cách đạo đức đặt lên trên nghĩa vụ của bản thân." Mill rất rõ ràng trong điều này, “Một sự hy sinh không tăng, hay hướng đến sự gia tăng, tổng hạnh phúc của nhân loại, nó được xem như là một sự hy sinh vô ích."

Một cách để đối phó với vấn đề là chấp nhận những khó khăn của nó. Đay là cách nghĩ của Peter Singer, người nói rằng: “Không có gì phải nghi ngờ rằng chúng ta thích giúp đỡ những người bên cạnh chúng ta một cách vô tư. Ít người có thể đứng nhìn và không làm gì khi một đứa trẻ sắp chết đuối; nhưng nhiều người hoàn toàn vô tâm trước những cái chết có thể cứu được của những đứa trẻ tại Châu Phi hay Ấn Độ. Tuy nhiên, câu hỏi không phải là những gì chúng ta thường làm, mà là những gì chúng ta nên làm, và rất khó để thấy những biện minh đạo đức đáng tin cậy nào cho các quan điểm mà khoảng cách, hay các thành viên trong cộng đồng, tạo nên một sự khác biệt đáng kể trong nghĩa vụ của chúng ta."[62]

Những người khác tranh luận rằng một học thuyết đạo đức đi ngược quá xa so với những niềm tin đạo đức hằn sâu trong bản thân chúng ta buộc phải bị từ chối hoặc sửa đổi.[62] Có rất nhiều nỗ lực khác nhau để sửa đổi Chủ nghĩa thực tế để giải thoát nó khỏi những yêu cầu dường như không thể chấp nhận được của nó.[63] Một trong số đó thực hiện loại bỏ những yêu cầu về tính hữu ích được tối đa hóa. Trong tác phẩm “Chủ nghĩa hệ quả thỏa mãn”(“Satisficing Consequentialism”), Michael Slote tranh luận cho một hình thức của Chủ nghĩa thực tế “một hành động có thể gọi là hành động đạo đức đúng đắn nếu nó có đủ những kết quả tốt, dù cho những kết quả tốt hơn có thể được tạo ra."[63] Một điểm mới của hệ thống này là nó có thể chứa một quan niệm quan trọng về những hành động thái quá.

Samuel Scheffler tiếp cận ở một góc độ khác và sửa đổi yêu cầu cho rằng mọi người được đối xử như nhau.[62] Trong thực tế, Scheffler đề cập rằng “Có những quyền lợi đặc biệt cho một số người trung tâm” để mà khi những lợi ích chung đang được tính toán, chúng ta được phép xem một số mong muốn của một số người là quan trọng hơn những người khác. Kagan cho rằng quá trình này có thể được chứng minh một cách cơ bản rằng “Một yêu cầu chung về việc ủng hộ những điều tốt đẹp sẽ thiếu các nền tảng động lực cụ thể cho những yêu cầu đạo đức thực tế” và, thứ hai, sự tự do của cá nhân là cần thiết cho những cam kết và những mối quan hệ cá nhân gần gũi và “giá trị của những lời cam kết này tạo ra một lý do tích cực cho việc bảo vệ những học thuyết đạo đức ít nhất là một vài sự tự do mang tính đạo đức cho quan điểm cá nhân."[63]

Tuy nhiên, Robert Goodin lại tiếp cận ở một góc độ khác và tranh luận rằng “Những mục tiêu khó khăn” có thể bị “giảm tính khắc nghiệt” bằng cách xem Chủ nghĩa thực tế như một cẩm nang hướng dẫn cho những chính sách xã hội hơn là một quy định về đạo đức cá nhân. Ông cho rằng nhiều vấn đề xuất hiện dưới những khuôn mẫu truyền thống vì những nhà tư tưởng Chủ nghĩa thực tế có lương tâm luôn hướng đến việc bù đắp những khiếm khuyết của người khác và vì vậy góp phần to lớn cho sự chia sẻ công bằng của họ.[62]

Harsanyi tranh luận rằng “các mục tiêu này” đã bỏ qua thực tế rằng “Con người gắn chặt những lợi ích to lớn đến tự do từ những nghĩa vụ đạo đức quá nặng nề… hầu hết mọi người sẽ thích một xã hội với những tiêu chuần đạo đức tương đối thoải mái, và sẽ cảm thấy xã hội này sẽ đạt tới những đẳng cấp cao hơn về lợi ích trung bình thậm chí nếu việc ứng dụng những tiêu chuẩn đạo đức này dẫn tới một vài sự thiếu sót về thành tựu kinh tế và văn hóa(sự thiếu sót này trong mức có thể chấp nhận được). Điều này có nghĩa là Chủ nghĩa thực tế, nếu như giải thích một cách đúng đắn, sẽ tạo ra những tiêu chuẩn đạo đức với những thái độ phù hợp thấp hơn rất nhiều so với những cấp độ đạo đức hoàn hảo, tạo ra nhiều cơ hội cho những “hành động thái quá” vượt qua những tiêu chuẩn trung bình này."[63]

Lợi ích tổng hợp

Mục tiêu “Chủ nghĩa thực tế không phân biệt rạch ròi những con người khác nhau” trở nên phổ biến vào năm 1971 với tác phẩm “A Theory of Justice” của John Rawls. Khái niệm này cũng quan trọng trong việc bác bỏ quyền bảo vệ động vật của Richard Ryder trong Chủ nghĩa thực tế, khi ông nói về “ranh giới của mỗi cá nhân”, thông qua đó không một nỗi đau hay sự thỏa mãn nào được bỏ qua.[64] Tuy nhiên, một mục tiêu tương tự được chú ý vào năm 1970 bởi Thomas Nagel(ông tuyên bố rằng Chủ nghĩa hệ quả(consequentialism) “xem xét những ham muốn, nhu cầu, sự thỏa mãn và sự không thỏa mãn của những con người riêng biệt là khác biệt"[62]), và thậm chí trước đó, David Gauthier, người viết rằng Chủ nghĩa thực tế giả định rằng “nhân loại là một siêu – nhân, sự thỏa mãn to lớn nhất của họ là mục tiêu của những hành động đạo đức… Nhưng điều này là vô lý. Mỗi cá nhân có những ham muốn riêng, không phải là nhân loại có ham muốn; Mỗi cá nhân tìm kiếm sự thỏa mãn cho mình, không phải là nhân loại tìm kiếm sự thỏa mãn. Sự thỏa mãn của một người không phải là thành phần của sự thỏa mãn to lớn."[62] Vì vậy, sự tổng hợp của những lợi ích trở nên vô ích khi mà cả nỗi đau và niềm hạnh phúc là nhân tố cấu thành và không thể bị chia cắt của việc nhận thức các cảm giác, biến những nhiệm vụ tổng hợp tất cả những niềm hạnh phúc đa dạng của nhiều người trở thành một việc bất khả thi.

Một lời đáp trả đối với sự chỉ trích này là chỉ ra rằng trong khi dường như để giải quyết một vài vấn đề thì nó làm nảy sinh những vấn đề khác. Một cách cảm tính, chúng ta thấy rằng có rất nhiều trường hợp mọi người muốn lấy số đông trong trường hợp này. Như Alastair Norcross đã nói, “giả sử rằng Homer phải đối mặt với những lựa chọn đau đớn giữa việc cứu Barney từ một ngôi nhà cháy hay việc cứu cả Moe và Apu từ ngôi nhà… rõ ràng, sẽ tốt hơn nếu Homer quyết định chọn lựa cứu nhiều người hơn, và nó chắc chắn đúng vì số người được cứu là nhiều hơn… Có bất kì ai thật sự xem xét vấn đề một cách thành thực nghiêm túc dám tuyên bố là mình tin rằng sẽ tệ hơn nếu một người chết hơn là toàn bộ nhân loại trên vũ trụ sẽ bị hủy hoại? Chắc chắn là không."[63]

Chúng ta có thể duy trì sự khác biệt giữa những con người ngay cả khi vẫn xem xét việc tổng hợp các lợi ích, nếu chúng ta chấp nhận rằng con người biết đồng cảm.[65] Quan điểm này được ủng hộ bởi Iain King,[62] người cho rằng cơ sở tiến hóa của sự đồng cảm có nghĩa là con người có thể cảm nhận được sự thỏa mãn của những cá nhân khác, nhưng chỉ ở mức cơ bản một người – một người, “Vì chúng ta chỉ có thể cảm nhận suy nghĩ của một người khác tại một thời điểm."[66] King dùng cái nhìn sâu sắc này để điều chỉnh Chủ nghĩa thực tế, và nó có thể giúp dung hòa triết học Bentham với vấn đề nghĩa vụ và đạo đức.[67]

Triết gia John Taurek cũng tranh luận rằng ý tưởng cộng các hạnh phúc và sự thỏa mãn trên toàn bộ con người là hoàn toàn khó hiểu và tổng số người trong một tình huống là không liên quan về mặt đạo đức.[68] Những quan ngại chủ yếu của Taurek đến từ điều này: Chúng ta không thể giải thích ý nghĩa của việc nói rằng mọi chuyện sẽ tệ hơn gấp 5 lần nếu 5 người chết so với chỉ 1 người chết. “Tôi không thể đưa ra một lời giải thích thỏa đáng về ý nghĩa của những kết luận như vậy,” Ông viết(trang 304). Ông tranh luận rằng mỗi người có thể chỉ đánh mất hạnh phúc hay sự thỏa mãn cho một người. Không có chuyện mất mát gấp 5 lần hạnh phúc hay sự thỏa mãn khi có năm người chết: Ai sẽ cảm thấy niềm hạnh phúc hay sự thỏa mãn này? “Sự mất mát bên trong của mỗi người có ảnh hưởng như nhau đối với tôi, chỉ như mất mát đối với riêng người đó. Vì, bởi giả thuyết, Tôi có một sự quan tâm như nhau đối với mỗi người trong hoàn cảnh đó, Tôi sẽ san sẻ nỗi đau cho mỗi người như nhau”(trang 307). Parfit[69] những người khác [70] đã phê bình những bài viết của Taurek, và nó tiếp túc được thảo luận.[71]

Tính toán sự hữu ích là tự tạo nên sự thất bại

Những lời chỉ trích ban đầu, được tuyên bố bởi Mill, cho rằng nếu ta dành thời gian để tính toán phương án hành động tốt nhất thì dường như cơ hội để thực hiện phương án tốt nhất đã trôi qua. Mill trả lời rằng có dư dả thời gian để chúng ta tính toán những kết quả có thể xảy ra:[72]

…Cụ thể là, Trong suốt lịch sử của loài người. Trong thời gian đó, con người đã được học bằng kinh nghiệm khuynh hướng của hành động; cùng lúc trải nghiệm sự kiên nhẫn, đạo đức trong cuộc sống, một cách độc lập… Nó là một quan điểm lạ khi cho rằng sự thừa nhận của nguyên tắc thứ nhất là không phù hợp với sự chấp nhận của nguyên tắc thứ hai. Để thông báo một người khách du lịch quan tâm điểm đến cuối cùng của mình, không phải là ngăn cấm việc sử dụng các cột hiệu và những bảng chỉ đường trên đường đi. Những tuyên bố rằng hạnh phúc là mục tiêu và mục đích của đạo đức, không có nghĩa là không có con đường được xây dựng đến mục tiêu đó, hay không có nghĩa là người đi đến đó không nên được khuyên để chọn lấy một hướng đi so với các hướng đi khác. Mọi người nên thực sự dừng nói một cách vô nghĩa về những chủ đề này, điều mà họ sẽ không nói đến hoặc nghe về nó trong các nỗi lo lắng về các vấn đề khác.

Gần đây, Hardin có cùng quan điểm đó. “Thật là đáng xấu hổ cho một triết gia nếu như họ đã từng xem vấn đề này quá nghiêm túc. Những vấn đề tương tự trong các vấn đề khác được cho là không quan trọng với những trí tuệ vĩ đại. Lord Devlin chú ý rằng, ‘nếu một người có lý trí làm việc “theo nghĩa vụ”(“work to rule”) khi chỉ đọc những điểm mà anh ta có trách nhiệm thực hiện, nền thương mại và hành chính của đất nước sẽ trở nên trì trệ.'"[62]

Những quan điểm này thậm chí dẫn những người theo Chủ nghĩa thực tế hành động tin tưởng vào “Quy tắc ngón tay cái”, như Smart đã gọi.[62]

Phê bình của Karl Marx

Karl Marx, trong tác phẩm Das Kapital, viết:[73]

Thậm chí không loại trừ các triết gia của chúng ta,Christian Wolff, có những ý kiến chất phác bình thường nhất từng được đánh giá cao một cách vô cùng tự mãn trong mọi quốc gia và xuyên suốt lịch sử. Nguyên tắc chính của “sự hữu ích” không phải là khám phá của Bentham. Bentham chỉ đơn giản là viết lại nó theo cách kém hấp dẫn của ông ta từ những gì Helvétius và các triết gia Pháp khác đã làm một cách tuyệt vời vào thế kỉ 18. Bản chất của nó không thể được suy luận từ nguyên tắc chính của “sự hữu ích”. Ứng dụng điều này vào con người, Bentham, người quy tất cả hành động và phong trào cũng như mối quan hệ…. của con người theo nguyên lý của sự hữu ích, buộc phải giải quyết trước những vấn đề thuộc bản chất tự nhiên của con người và sau đó là tính tình của con người được thay đổi qua các thời kì lịch sử. Bentham chỉ làm được một phần nhỏ công việc này. Với sự ngây thơ khô khan nhất, ông xem những người bán hàng, đặc biệt những người bán hàng tại Anh, như những người bình thường. Bất cứ những gì là hữu dụng đối với người đàn ông bình thường “bất thường” này, và đối với thế giới của ông, là chắc chắn hữu dụng. Thước đo này, sau đó, được ông áp dụng vào cả quá khứ, hiện tại và tương lai. Thiên Chúa giáo, ví dụ, là “hữu dụng”, “vì nó ngăn cấm trong các điều Luật của nó những lỗi lầm tương tự có trong điều Luật của luật pháp.” Phê bình nghệ thuật là “gây hại”, vì nó làm rối loạn những con người giá trị trong sự thưởng thức của họ đối với tác phẩm của Martin Tupper, …. Những điều vô giá trị có những điều thú vị, theo phương châm của Bentham, “những dòng viết bừa[không ngày nào không viết]”, tạo ra một “núi sách”.

Chỉ trích theo chủ nghĩa nhân vị của John Paul II

Đức giáo hoàng John Paul II, theo quan điểm từ chủ nghĩa nhân vị của ông, tranh luận rằng sự nguy hiểm của Chủ nghĩa vị lợi là nó hướng tới việc làm cho con người, cũng như bất kì sự vật nào khác, trở nên hữu dụng. “Chủ nghĩa vị lợi”, ông viết, “là một nền văn minh của sản xuất và sử dụng, nền văn minh của đồ vật chứ không phải con người, một nền văn minh mà con người được dùng cùng một cách như bất kì đồ vật nào khác được sử dụng."[74]